jump to navigation

LNP: Hoai co 68 November 27, 2010

Posted by molang4 in Uncategorized.
add a comment

Hoài cổ 68

Nhạc sĩ Tiền Chiến xưa và nay (1,2,3,4,5,6)

(Tiếp theo)

Nhóm Hải Phòng:Hoàng Quý,Hoàng Phú,Phạm Ngữ ,Canh Thân:(1,2)

Cùng với Lê Thương,nhóm các nhạc sĩ tại Hải Phòng gồm anh em Hoàng Quý,Hoàng Phú(Tô Vũ),Phạm Ngữ,Canh Thân ,được gọi là nhóm Hải Phòng,có nhiệm vụ sáng tác và hát phụ diễn cho đoàn kịch nói “Thế Lữ”.Nhóm này là tiền thân của nhóm Đồng Vọng sau này với thêm sự góp mặt của Văn Cao ,Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước.Sau năm 1954,Lê Thương và Canh Thân di cư vào Nam nên có cơ hội phổ biến đến công chúng nhiều bản nhạc tình cảm.Hoàng Quý mất sớm,Tô Vũ ,Pham Ngữ ở lại miền Bắc.Trong tình hình chính trị thời đó,nhạc tiền chiến của các ông không được hát,các ông có làm một số nhạc tuyên truyền (nhạc đỏ),nhưng không để lại nhiều ấn tượng!Sau này Tô Vũ có nói rằng ông còn đến hơn 60 bài nhạc tình cảm làm trong giai đoạn đó,đến nay vẫn chưa được phổ biến!

Hoàng Quý (1,2,3,4,5,6)

Hoàng Quý (19201946), nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng, là một trong những gương mặt tiên phong của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của nhạc phẩm Cô láng giềng bất hủ.

Hoàng Quý sinh năm 1920 tại Hải Phòng, ông là anh trai của Hoàng Phú, tức nhạc sĩ Tô Vũ. TheoPhạm Duy, Hoàng Quý từng là học trò của Lê Thương tại trường Trung học Lê Lợi ở Hải Phòng vào cuối thập niên 1930. Hoàng Quý theo học nữ giáo sư âm nhạc Leperète dạy nhạc ở các trường trung học ở Hải Phòng. Nhờ có năng khiếu và ham học, Hoàng Quý tiếp thu âm nhạc khá tốt, chỉ một thời gian sau trở thành giáo viên dạy nhạc của trường Bonnal.

Và vào năm 1939, đúng lúc phong trào Nhạc cải cách vừa ra đời, cùng với các ca nhạc sĩ tài tử ở đất Cảng lúc đó là Phạm Ngữ, Canh Thân và em trai Hoàng Phú, Hoàng Quý là người đầu tiên trình diễn nhạc Lê Thương tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng….Phạm Duy đã nhận xét: “Đánh giá Hoàng Quý không nên chỉ thu hẹp vào những sáng tác của ông, bởi vì sự hoạt động cho nền nhạc hùng còn là một điều khiến chúng ta phải ghi nhớ và ghi ơn. Ông là linh hồn của đám nhạc sĩ trẻ ở Hải Phòng, thúc đẩy mọi người sáng tác và ông làm cho những sáng tác đó có một đời sống hẳn hoi, nghĩa là in ra, hát lên trong những sinh hoạt hướng đạo hay học sinh của ông”. Văn Cao cũng thường nhắc tới Lê Thương và Hoàng Quý là hai nhạc sĩ có ảnh hưởng tới con đường âm nhạc của ông.

Trước khi trở thành người soạn nhạc tiền đạo của xu hướng nhạc hùng, Hoàng Quý cũng đã đi vào lãnh vực nhạc tình, với những bài nhạc tình yêu như Tú Uyên, hay những bài nhạc tình quê như Chiều quê, Đêm trăng trên vịnh Hạ Long, Chùa Hương… mà nổi tiếng hơn cả là ca khúc bất hủ Cô láng giềng.

Các tác phẩm được phổ biến gồm:Bóng cờ lau ,Cảm tử quân ,Chiều Quê ,Chiều xuân ,Chùa Hương ,Cô Lái Đò ,Cô Láng Giềng ,Đêm trăng trên vịnh Hạ Long ,Đêm trong rừng ,Đợi chờ,Dưới bóng thông xanh ,Gọi bạn lên đường ,Hương quê ,Lời vọng ngàn xưa ,Nắng tươi ,Nước Non Lam Sơn ,Tiếng chim gọi đàn, Trên sông Bạch Đằng ,Tú Uyên ,Xuân về (1)

Ngoài những bài nhạc tình cảm như Chiều Quê,Chùa Hương,Cô Lái Đò,nhất là Cô Láng Giềng được người miền Nam ái mộ,phổ biến rộng rãi,về nhạc Hùng,hơn 60 năm sau ngày ông mất (26 tháng 6 1946,thọ 26 tuổi)chúng ta còn nhớ được một số bài như Bóng Cờ Lau,Nước non Lam Sơn,Tiếng Chim Gọi Đàn,Trên Sông Bạch Đằng,v.v…vì ngày đó ở miền Nam sau 1954 người ta vẫn hát nhạc ông và nhạc Tô Vũ dù 2 anh em ông là những người theo CS!Trong 70 năm Tình Ca,Hoài Nam của đài SBS,Úc Châu,nói rằng Hoàng Quý ngoài Cô Láng Giềng còn có Tú Uyên nay đã thất truyền!(3) Thực ra  nhạc Hoàng Quý được biết đến nhiều hơn cả em ông,là nhạc sĩ Hoàng Phú tức Tô Vũ,người còn sống đến ngày nay,còn là do số lượng lớn được phổ biến(riêng tôi nhớ được đã là 12 bài),và Tú Uyên không phải là “thất truyền”

Trong bài viết của mình(6) ,nhạc sĩ Lê Thương đánh giá:

Thế hệ Hoàng Quí còn đáng ghi ở nhiều nét mà ngày nay hầu như thiếu sót: Đó là sự quên mình cho đoàn thể, cho kẻ khác. Giữa lúc phải chăm lo học hành, Hoàng Quí phải chăm lo cho đàn sói con, cho đàn em trong nhà, cho bạn tráng sinh đồng đội và âm nhạc…”

Xin mời các bạn nghe lại:

Bóng Cờ Lau:

Ta cùng nhau đi
Thăm nơi hùng xưa
Oai linh đứng muôn đời
Giữa nơi sông cùng núi
Và sân đá tường rêu
Rải gan sương cùng mưa

Ngàn bông lau reo đưa
Theo gió chiều phất phới
Hay bóng cờ lau năm xưa còn đâu đây
Kìa bao tiếng trâu xa
Còn vọng trong khói mơ
Dè chừng như tiếng loa trong rừng cây
Hoa Lư ơi !
Non lau còn trong sương gió
Đến muôn đời mà không rứt lời ca
Với tiếng gió Hoa Lư ơi
Muôn năm còn trong sương gió
Đứng oai hùng cùng với nước nhà

Chiều Quê:

Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm tre đàn chim ríu rít ca
bao người ra ngồi hay đứng bên thềm
Đợi chồng con mắt trông về phía trời xa

Sáo diều êm nào khác lời thơ
Lúa vàng reo ngàn muôn sóng nhấp nhô ..
Ôi ! chiều quê chiều sao xiết êm đềm ..
Nhìn xem tơ khói vương chờ giây phút mến thương ..
Trông người ra ngồi hay đứng bên thềm
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên .

Quê nhà tôi đời dân sống êm đềm
Chiều khi trăng mới lên và chim thôi hát ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên

Tiếng bờ tre đùa gió chiều lên
Mấy hàng cau đằm trăng xóa rơi đêm
Ôi hciều quê chiều sao xiết êm đềm
Chiều khi trăng mới lên đàn vạc lên tiếng kêu
Ôi hồn quê hồn thức lúc ban chiều
Nhìn chiều quê nắng mơ càng thấy lòng yêu

Chùa Hương (1943)
Thuyền bơi lướt trên sóng xanh biết bao êm đềm.
Con thuyền đưa tôi đến nơi thần tiên.
Chùa Hương với đồi núi cao biết bao êm đềm ?
Phút mơ màng quên hết ưu phiền.

Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió.
Tiếng Nam mô êm êm dần lan xa xa mỗi phút thêm âm trong ngàn mơ.
Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió
Tiếng nam mô lãng đãng hồn tôi bay theo tiếng chuông nơi xa mờ.
Thuyền bơi lướt trên sóng xanh biết bao êm đềm.
Con thuyền đưa tôi đến nơi thần tiên.

Chùa Hương với đồi núi cao biết bao êm đềm ?
Phút mơ màng quên hết ưu phiền.

Dừng chân ngắm trời nước mây nhuốm trong nắng tàn
Chuông chiều buông rơi phút giây dần tan.
Đồi mơ giữa giòng nước xanh thoáng dăm bóng thuyền, phút tâm hồn sạch hết ưu phiền.

Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió.
Tiếng Nam mô êm êm dần lan xa xa mỗi phút thêm âm trong ngàn mơ.
Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió
Tiếng nam mô lãng đãng hồn tôi bay theo tiếng chuông nơi xa mờ.

Đường đi bước lần thấp cao khác chi tới miền
Non bồng muôn năm sống vui thần tiên.
Chùa Hương giữa giòng nước xanh, biết bao êm đềm ?
Phút mơ màng quên hết ưu phiền.

Chùa Hương khói trầm ngất bay những khi nắng tàn.
Trên đồi mơ non tiếng chuông dần tan.
Ngàn cây với một tiếng chim sót trong nắng tàn.
Đắm tâm hồn vào giấc mơ màng.

Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió.
Tiếng Nam mô êm êm dần lan xa xa mỗi phút thêm âm trong ngàn mơ.
Chiều sương rơi còn đâu đây vang tiếng trầm theo gió
Tiếng nam mô lãng đãng hồn tôi bay theo tiếng chuông nơi xa mờ.

Chùa Hương khói trầm ngất bay những khi nắng tàn.
Trên đồi mơ non tiếng chuông dần tan.
Ngàn cây với một tiếng chim sót trong nắng tàn,
Đắm tâm hồn vào giấc mơ màng.

( Chùa Hương (Thanh Lan)

Cô Lái Đò

Dừng chèo lại đây cô lái đò ơi !
Dừng chèo lại đây giây phút ngừng bơi.
Cho tôi sang bến, bến sông xa vắng.
Đường xa đêm vắng khánh sang mình tôi.
Dừng chèo lại đây cô lái đò ơi !
Dừng chèo lại đây giây phút ngừng bơi.
Cho tôi dăm phút con tim tàn héo
Rồi cho sương gió lấp tàn đời tôi
Ơ cô lái đò ơi !
Cô nhìn quyến luyến bước chân giang hồ
Bốn mắt nhìn nhau khẽ ước một câu
Ta mong tình yêu, đôi lứa bền lâu
Muôn năm hạnh phúc, rực rỡ muôn màu
Ơ….Ta tìm hạnh phúc êm đềm muôn đời.

Bài này ngày xưa Bố tôi hay hát nên tôi cũng thuộc,nhưng giờ không tìm được người hát lại!
Cô Láng Giềng (Sĩ Phú)(Vũ Khanh)
Hôm nay trời xuân bao tươi thắm.
Dừng gót phiêu linh về thăm nhà.
Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi
Tôi đã hình dung nét ai đang cười.
Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm.
Đôi mắt trong đen màu hạt huyền,
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
Xao xuyến nỗi niềm yêu…
Cô láng giềng ơi!
Không biết cô còn nhớ đến tôi.
Giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ.
Cô láng giềng ơi!

Tuy cách xa phương trời
tôi không hề.
Quên bóng ai bên bờ đường quê
Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về.
Năm xưa khi tôi bước chân ra đi.
Đôi ta cùng đứng bên hàng tường Vi.
Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi.
Đừng nói đến phân ly.
Cô láng giềng ơi!
Nay bóng hoa bên thềm
đã thắm rồi.
Chân bước vui bên bờ đường quê.
Em có hay chăng giờ tôi về…
(Lời 2:http://dactrung.net/Bai-nh-221-Co_Lang_Gieng.aspx)

Đêm Trăng Trên Vịnh Hạ Long (Phượng Bằng)

(Sáng tác năm 1946)
Chiều rơi trong gió khơi đềm êm
Đằng chân mây dần trăng non lên
Ánh vàng tha thướt nước mờ trong xanh
Gió đưa hơi gợn sóng
Đằng xa xôi bóng non chập chùng
Nằm im nghe mờ trong không trung
Tiếng đàn thánh thót theo ngàn lời ca
Trông con tàu theo gió xa đưa dần xa
Non màu xanh mờ đứng
Bóng tàu đi uốn quanh
Muôn hồn bên trời nước
Nhắc thời xưa hồn nước lừng danh

Tàu đi trong ánh trăng đềm êm
Đàn theo ca tàn rơi trong đêm
Ánh vàng soi nước gió ngàn dâng lên
Ước cho thuyền tới bến, bến mơ thần tiên

Tham khảo:
1. Mời nghe ca sĩ Phượng Bằng và giọng nữ phụ họa trong một chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng trước năm 1975, tuyển lại trong CD Hoàng Trọng Tiếng Xưa 1: Chùa Hương, phát hành tại Hoa Kỳ năm 1998.

Đêm Trong Rừng (Ngọc Cẩm_Nguyễn Hữu Thiết)

Rừng muôn cây xanh cao
Âm u ngàn gió lá
Khuất bóng ánh trăng sao
Ngồi chung quanh phiến đá
Ta khơi lửa đào
Bập bùng bập bùng trong đêm thâu
Mờ sương reo trong không
Âm u ngàn thác lá
Gió lắng xa mênh mông
Ngồi trong hơi núi giá
Ta khơi lửa hồng
Bập bùng bập bùng trong đêm sâu
A . . . ngồi trong ánh hương đêm
Ta cùng cất cao lời nguyền
Thề đồng tâm ta quyết thề sông núi
(nhắc lại cả câu)
Đem tâm can xây đắp ngày tươi mới
(nhắc lại cả câu)
Hm . . . (tiếng ngân thật dài). . . . .
Một lòng son !
Bền tâm chí !
Vì non nước !
Có sa chi lao lung
Anh em ơi im nghe vang âm trong rừng
Một lòng son !

Bền tâm chí !
Vì non nước !
Có sa chi lao lung
(chậm dần cho đến hết)
Anh em ơi im nghe vang âm trong rừng
Hm . . . (tiếng ngân thật dài). . . . .

(Bài này các bạn Hướng Đạo Sinh nào cũng biết,mời các bạn TTP,NVM,NVK,CTH, nghe lại)

Nước Non Lam Sơn (Hợp Ca)

Vầng non cao ngất khí thiêng
Tưng bừng một sáng mùa Xuân mới
Tiếng reo vang theo từng hơi gió dần/đằng xa vời
Vừng ô lên sương tàn mờ trong mây núi
Bóng quân đi theo tiếng chiêng oai hùng rơi
Nước non Lam Sơn !
Nước non Lam Sơn !
Bóng cờ bay phấp phới
Khắp nơi cờ vàng
Khắp nơi cờ vàng
Muôn hồn quân Nam
Hồi chiêng khua gió núi đưa
Vang lừng một sáng trời tươi nắng
Vó câu đi nhịp nhàng trong sóng người trên đường
Vừng ô lên sương tàn mờ trong tia nắng
Khắp non mây bao tiếng ca tơ lòng vương

Tiếng Chim Gọi Đàn

Tiếng chim vang lừng gọi đàn trong sương sớm

Vang trong trời xa như giục lòng trong gió sương

Ngang mây thiết tha lời ca còn dư vang

Trong chim bay dần xa vui theo đàn như nhắn sang

Thanh niên ơi đi lên

trên con đường đầy tia nắng sớm

Đi đi thôi đi lên,vui tươi cười vang hát ca

Non sông thân yêu đón gót bước chân nhịp nhàng rộn đều

với tiếng hát nức tâm hồn

Muôn chim vui ca khắp chốn gió lá hoa bao hương thơm đón tiếng gót bước

lên đường

Đi đi thôi đi lên vui tươi cười trong sương gió nắng

đi thăm qua non sông Đi cho lòng tha thiết yêu! (nhạc nốt)

Trên Sông Bạch Đằng

Trên sông Bạch Ðằng
Quân Nam ầm reo
Sóng nước vang đưa
Bao con thuyền mành trôi theo
Cờ bay gươm tuốt ra, quân vùng lên
Làm cho đuổi tan hết quân Nguyên
Ðến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Ðằng
Thì anh em ta vui ca rằng :
Con sông Bạch Đằng
nước trôi triền miên
có biết đâu bao năm qua là mộ quân Nguyên
ai nhớ thương ________
cho quân Việt hết ______
Ðến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Ðằng
Thì anh em ta vui chiến thắng

Mấy bài này đều là những bài ca trong sinh hoạt của anh em Hướng Đạo
Xuân Về

Disco – Step
Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Bao chim đua hót trong mây Xuân về trong khóm cây
Chim rồn gieo khắp bao lời yêu Xuân xuống khắp đó đây
Chim xanh ca rằng : Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Sao ta không đón Xuân tươi đang về trong nắng hương
Cùng nhau vui hát cho bao nhiêu người cùng thấy quên sầu đau thương
Nắng đã reo vàng đều trên khóm lá xanh,
Và mây hồng thắm vương trôi trên trời biếc
Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Sao ta không đón Xuân tươi đang về trong nắng hương
Cùng nhau vui hát cho bao nhiêu người cùng thấy quên sầu đau thương

Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Ta không nên phút giây quên bao người đang khóc than
Trong đời tươi thắm bao lời đau thương âm lên tiếng vang
Ta không quên rằng : Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Nhưng bên ta có bao nhiêu cuộc đời trong gió sương
Cùng nhau vui giúp cho bao nhiêu người cùng thấy quên sầu đau thương
Cho nắng reo vào đời ai trong tối đen,
Và xuân bừng thắm lên môi bao lời khóc
Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm,
Nhưng bên ta có bao nhiêu cuộc đời trong gió sương
Cùng nhau vui giúp cho bao nhiêu người cùng thấy quên sầu đau thương

Tham khảo : Tuyển tập nhạc Xuân Thu 36 – Cùng một kiếp hoa

Bài này cũng là một bài quen thuộc của Hướng Đạo sinh,mà nhiều bạn trong độ tuổi tôi còn nhớ.

Vào tháng 7/2006 người ta (nhà báo Nhật Hoa Khanh)mới”sưu tầm” để đưa lại cho nhạc sĩ Tô Vũ 11 bản thất lạc của Hoàng Quý.Theo Tô Vũ dù ra đi ở tuổi 26,nhạc sĩ Hoàng Quý đã để lại cho đời 70 tác phẩm âm nhạc.Vây thì 12 bài mà tôi biết như ở trên cũng mới chỉ là một con số nhỏ nhoi!Con số lớn còn lại bao giờ mới có cơ hội đến tai công chúng?Và chỉ có công chúng mới quyết định bài ca nào sẽ còn lại mãi với thời gian.Nhạc sĩ Tô Vũ nói rằng sau khi anh ông mất,ông mới biết anh ông là người CS.Tiếc thay ông mất sớm quá nên người ta không có dịp nghe bài hát ông ca tụng Đảng và bác Hồ,để so sánh với em ông,hay các nhạc sĩ khác như Văn Cao,Phạm Tuyên,và nhiều nhạc sĩ  sau này!

(Còn tiếp)

Lê Ngọc Phượng

27/11/2010

 

LNP: Hoai co 67 November 20, 2010

Posted by molang4 in Uncategorized.
add a comment

Hoài cổ 67

Nhạc sĩ Tiền Chiến xưa và nay (1,2,3,4,5,6)

(tiếp theo)

Nhạc Sĩ Lê Thương và nhóm Hải Phòng:

Nhạc sĩ Lê Thương ( 1,2,3,4, 5,6,7,8)

Về tiểu sử của Lê Thương,có rất nhiều bài viết đáng tin cậy,như của Phạm Duy (6),của Hội Nhạc Sĩ (7),của Vương Trùng Dương (8),…

 

Xin tóm tắt một số nội dung trong các bài viết ấy:

 

Lê Thương (19141996) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của bộ ba ca khúc Hòn vọng phu bất hủ.

 

Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu hoàn tục.

 

Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Hải Phòng. Lê Thương cùngHoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên. Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.

 

Lê Thương là một trong những cánh chim đầu đàn của tân nhạc (cùng thế hệ với Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Lê Yên, Thẩm Oánh, Nguyễn Xuân Khoát, Dzoãn Mẫn…), ông từng là một thầy dòng nhưng rồi lại bỏ áo tu – chắc vì tâm hồn quá lãng mạn và đa tình. Tuy vậy, chất “thầy” vẫn còn thấm đượm trong ông nên dù có viết nhạc “hoa bướm”cỡ nào thì ông vẫn được tiếng là nghệ sĩ có cuộc sống rất chừng mực, giản dị và trí thức (sau khi bỏ áo tu ông làm nghề giáo). Lê Thương sừng sững như ngọn núi cao trong tân nhạc với bộ ba Hòn Vọng Phu (1,2 và 3) với câu chuyện thiếu phụ Nam Xương chờ chồng hoá đá. Bắt đầu bằng bài tình ca nhỏ Nàng Hà Tiên từ thập niên 40 đến Hòn Vọng Phu đồ sộ, nhạc của ông tựa hồ là những câu chuyện kể…

 

Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng mẹ Việt Nam hay Bà Tư bán hàng nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm DuyTrần Văn Trạchnăm 1951.

 

Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như Nàng Hà Tiên,Lịch sử loài người, Hoa thủy tiên… Đặc biệt hơn cả là bộ ba Hòn vọng phu, được xem như một trong những tác phẩm lớn nhất của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

 

Nhạc thiếu nhi của Lê Thương thì càng tuyệt hơn nữa. Nói không ngoa, ông cùng với Nguyễn Xuân Khoát là hai trong những bậc sư tổ của nhạc thiếu nhi Việt Nam (sau này sẽ ra đời nhiều cây bút bay lên từ nền tảng này: Phong Nhã, Hoàng Long – Hoàng Lân, Phạm Tuyên, Trương Quang Lục…). Ai mà không nhớ những đêm Trung Thu tuổi thơ với lung linh bài hát Thằng Cuội? Cũng là một kiểu kể chuyện duyên dáng gần với đồng dao, và giai điệu đẹp rất Việt đã mang đến cho tuổi thơ chúng ta bao thi vị về chú Cuội, Hằng Nga, cây đa… Rồi lớn lên một chút, chúng ta lại hát vang: ”Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…”(bài Học sinh hành khúc).

 

Một tâm hồn mẫn cảm, “hiệp sĩ” và trẻ thơ đã cùng với tài hoa Lê Thương tạo nên những tác phẩm trứ danh thấm đẫm tình quê hương mà vẫn mở lòng ra với bốn phương, chắc chắn là điều để những nhạc sĩ hậu thế khi tiếp cận và thâu thái âm nhạc đương đại thế giới phải ngẫm nghĩ khi đứng giữa ranh giới “học đòi và học hỏi – bắt chước và sáng tạo

 

Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có 9 người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.

 

Sau tháng 4-75, Lê Thương kẹt lại ở quê nhà, không còn cơ hội thuận lợi tham gia trong sinh hoạt nghệ thuật. Bước vào đầu thập niên 90 tinh thần và thể xác suy yếu. Cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn, may mắn được sự giúp đỡ của vài nghệ sĩ quý trọng ông. Vào giữa thập niên 90, ông hoàn toàn mất trí. Trong khi hàng triệu người ở quê nhà và hải ngoại đón tết Trung Thu, tác giả Thằng Cuội nhắm mắt lìa đời ngày 17-9-1996, hưởng thọ 83 tuổi. Lê Thương trở về với cát bụi, theo “Gió không có nhà, gió bay muôn phương, biền biệt chẳng ngừng trên trời nước Nam…”

Hơn nửa thế kỷ đóng góp cho âm nhạc Việt Nam, Lê Thương sáng tác hàng trăm tác phẩm, nhiều ca khúc khai sinh cho nền âm nhạc Việt Nam tuy đánh dấu cái mốc lớn lao trong lịch sử tân nhạc nhưng thời gian rồi sẽ phôi phai như nhiều ca khúc khác cùng thời của ông. Thế nhưng, ngày nào còn nhắc đến hình ảnh Hòn Vọng Phu, ngày đó tên tuổi Lê Thương vẫn còn bay lượn giữa muôn nghìn âm thanh bồng bềnh trong tâm thức.(8)

Học Sinh Hành Khúc

Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao.
Lúc khắp quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập.
Học sinh nề chi tuổi xanh trong lúc phấn đấu.
Đem hết can tràng của người Việt Nam tiến lên!

Ca Khúc 1 :

Học Sinh là mầm sống của ngày mai.
Nung đúc tâm hồn để nối chí lớn.
Theo các thanh niên sống vì giống nòi.
Liều thân vì nước, vì dân mà thôi.

Ca Khúc 2 :

Học Sinh là người mới của Việt Nam.
Đã thoát ra một thời xưa tối ám.
Đem sức thanh tân chống mọi suy tàn
Học Sinh làm sáng đời dân Việt Nam.

Ca Khúc 3 :

Học sinh vào đời chiến thủ ngày nay,
Nung đúc can tràng để binh lý chí.
Trong lúc nước Nam ước mộ anh tài,
Học sinh bền chí lập công từ đây.

Hoa Thủy Tiên

Một nghìn năm trước
Trong đời Trần Nam quốc
Có cô công chúa lòa
Cả đời nuôi nấng hoa
Trời làm nắng gió
Sau một chiều giông tố
Các hoa trên gác lầu
Phải một cơn đớn đau

Nàng bạch mẫu đơn
Trôi lạc mất con
Khấn xin công chúa lòa
Tạ đền nụ hoa cho bà
Lòng nàng công chúa
Thương người và hoa quá
Đến đêm xin khấn trời
Xin đền nụ hoa đã rơi
Nàng bày trên gác
Ước chừng mười tô nước
Khấn xin ba tháng ròng
Nhưng trời chỉ cho nước trong
Ngày tháng chóng qua
Thu hè đã xa
Cuối đông năm đó trời
Cho nàng thủy tiên xuống đời

Nằm chìm trong nước
Đang chờ thời gian lướt
Thấy cô công chúa lòa
Cô nàng Thủy Tiên tiến ra
Trình bày trên bát
Ba lòng vàng thơm ngát
Khiến cho đôi mắt loà
Của nàng công chúa sáng ra
Nàng mở mắt xong
Trông vào tô nước trong
Thấy xuân năm đó trời
Cho nàng Thủy Tiên xuống đời

Hòn Vọng Phu (*) (Thái Thanh)(3)

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn,
quan với quân lên đường,
đoàn ngựa xe cuối cùng,
vừa đuổi theo lối sông.
Phiá cách quan xa trường,
quan voi quân lên đường,
hàng cờ theo trống dồn
ngoài sườn non cuối thôn,
phất phơ ngậm ngùi baỵ

Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
Vui ca vang rôi đi tiến binh ngoài ngàn.
người đi ngoài vạn lí quang sang,
người đứng chờ trong bóng cô đơn.
Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nuối ngàn trùng.
người không rời khỏi kiếp gian nan,
người biến thành tượng đá ôm con.

Ngựa phi ngoài xa hí vang trời,
chiêng trống khua trăm hồi,
ngần ngại trên núi đồi,
rồi vọng ra khắp nơị
Phiá cách quan xa vời,
chiêng trống khua trăm hồi,
ngần ngại trên núi đồi,
rồi dậy ra khắp nơi
thắm bao niềm chia phôi.

Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về,
ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.
Nhìn chân trời xanh biếc bao la,
người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,
bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,
người tung hoành bên núi xa xăm,
người mong chồng còn đứng muôn năm

Hòn Vọng Phu 2 (*)

Người vọng phu trong lúc gió mưa,
Bế con đã hoài công để đứng chờ,
Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ

Có đám cây trên đồi gióng trông trong mơ hồ,
Ngày nào tròn trăng lại nhớ đến tích xưa..
Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ,
Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già
Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa,
Nàng đứng ôm con, xem chàng về hay chưa? Về hay chưa?

Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng,
Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng.
Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ
Những người mang mệnh biệt ly

Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba,
Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống “Bà”, hình hài người bế con nươc chảy chan hòa, Thấm vào đến tận tâm hồn đứa con,
Nên núi non thương tình kéo nhau đi thăm nàng nằm thành Trường Sơn vạn lý xuyên nước Nam.
Dâng lá hoa suối nguồn với muôn chim vô vàng
Bầy cảnh Nam Bắc đầy cỏ hoa
như cố khuyên nàng trở về, chớ đừng để xuân tàn,
nhiều đồi rủ nhau kéo thành đảo ra tới tận khơi ngàn…
Xem chàng về hay chưa, về hay chưa?

Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn.
Nàng cố đợi nghìn năm, một nghìn năm nữa khác sẽ qua, đến khi núi lở sông mòn, mới mong trở thành Hòn Vọng Phu

Hòn Vọng Phu 3 (*)

Nơi phía Nam giữa núi mờ
Ai bế con mãi đứng chờ
Như nuớc non xưa đến giờ?

Đuờng chiều mịt mù cát bay tỏa buớc ngựa phi
Đuờng truờng nếp tàn y hùng cuờng vẫn còn bay trong gió
Bóng từ xa sắp dần qua bóng chàng chập chùng vuợt núi non cũ
Với hành luơng độ đường
Chiếc hùng guơm danh tuớng
Duới tà uy đếm nhịp đi vó ngựa phi
Dấn buớc tang bồng giữa nơi núi rừng

Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng
Đuờng về nuớc chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo
Cây với rừng ruờm rà
Đuờng Vạn Xuyên, đuờng cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm nhòa

Đò vạn lý, Đò ải quan,
đò rừng lá nuớc trong bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp,
Bao tháng năm vẫn chưa xóa nhòa

Tiếng núi non lưu luyến tấc lòng bao nghìn năm
Tiếng gió cồn như tiếng trống dồn buổi khuya vắng
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thuơng vang động trong lòng
Đồi lan, đồi quế rắc kho huơng nồng
Rừng sao đua đòi rừng trắc
Lo che ánh lửa vầng duơng tiếp đưa bóng chàng

Đuòng cao đuờng thấp khắp khe chân chàng
Nhìn qua con đuờng mòn cũ
Quanh co mấy buổi tà duơng mới mong tới làng

Nhớ cố huơng lưu luyến sao tiếng tấc lòng mau dồn chân
Vết buớc đi trên phím đá mòn còn in dấu
Từ bóng cây ngôi mộ bên đuờng
Từ mái tranh bên đỉnh trong làng
Nguồn sử sanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thuơng vang dậy trong lòng

Lòng Mẹ Việt Nam (Khánh Ly)

Bà tư bán hàng có bốn người con
Thằng hai đã lớn ba em hãy còn
Học theo các trường nay đã thành khôn
Năm loạn lạc kia trong nước Việt Nam
Mấy con của bà đều lên lối đường
Đầu quân chiến trường theo chí người dân
Đem thân lên đường xông pha chiến trường
Đành lòng bỏ xa gia đình từ đó
Kiếp sống tung hoành quên thân xác mình
Hằng mong ước thành công lớn về sau
Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên
Suốt ba năm liền bà tư mẫu hiền
Ngày đêm khấn nguyện cho mấy người con

Bà tư nóng lòng đêm nhớ đàn con
Gần đây vài tháng có nghe tiếng đồn
Người con lớn bà đang sống ngoài xa
Nhân cuộc hành binh tháng chín thời kia
Đứa con của bà chẳng may mắc nạn
Ngày nay đã nằm trên chiến địa xa
Đem hung tin về người kia lỗi thề
Vì người con trai ước rằng khi chết
Chớ nói cho bà tin anh vĩnh biệt
Kẻo đem nói thiệt thân mẫu tủi thương
Anh để một thư nhờ người gửi đưa
Chiếc thư mong chờ ngày sau nước độc lập
Con sẽ gặp mẹ đứng chờ con

Bà tư thắp đèn cầu khấn người con
Bà xin cho mấy đứa em hãy còn
Ở trong núi rừng anh dẫn về cho
Xong một ngày kia ba lá tình thư
Nói con bây giờ đường xa cách trở
Vậy xin kính thờ đôi chữ bình an
Thương con bao tình đêm ba tấm hình
Bà thề nguyện dâng con mình cho nước
Thân con lưu lạc mẹ xin phó mặc
Đời con muốn đặt tổ quốc ở trên
Thư rằng mẹ xin thành mẹ Việt Nam
Có con sa trường chỉ mong ước rằng
Ngày sau nước còn công ấy nhờ con

Thằng Cuội

Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ
Lặng yên ta nói Cuội nghe:
”Ở cung trăng mãi làm chi”
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ

Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta
Lặng nghe trăng gió bảo nhau:
”Chị kia quê quán ở đâu”
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta

Các con dế mèn
Suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ
Đền công cho dế nỉ non,
Trời cho sao chiếu ngàn muôn
Các con dế mèn
Suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ

Sáng rơi xuống đồi
Sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây
Cùng trông ánh sáng cười vui
Chị em ta hãy đùa chơi
Sáng rơi xuống đồi
Sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây

Các em thích cười
Muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang
Mười lăm tháng Tám trời cho
Một ông trăng sáng thật to
Các em thích cười
Muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang

Tuổi Thơ

Tác giả: Lê Thương

Trời xanh xanh mát
Hương thơm thơm ngát
Cùng nhau ta múa điệu ca
Cùng nhau ta hát đời ta
Nhụy hoa thanh khiết
Men hoa ngây ngất
Hát cho tâm hồn được khuây
Cũng như cánh đẹp được bay

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Cười vui ca hát
Tươi thắm đôi môi ướt
Bàn tay năm ngón cùng xinh
Màu da trong trắng mượt tinh
Chìm trong đôi mắt bao ướt mơ trong vắt
Sướng thay cho đời trẻ thơ
Mỗi trang là một bài thơ

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Trẻ con theo tánh ưa trái cây ưa bánh
Hàm răng hay sún vì chua
Mà ai cho bánh thì ưa
Dầm mưa dang nắng
Chơi cát dơ mẹ mắng
Sống vui trong bầu trời thơ
Sướng thay cho đời trẻ thơ

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa
Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa
Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

 

Ngoài ra còn Thu Trên Đảo Kinh Châu theo âm hưởng Nhật,và Tâm sự Ca NHân cũng là những bài quen thuộc.Ba bài “Hòn Vọng Phu” (3 )là những kiệt tác của Nguyễn văn Thương,không ai không biết .Bài Hoa Thủy Tiên cũng rất được phổ biến,nhưng bài phổ biến nhất ở thời chúng tôi là bài Học Sinh Hành Khúc,vì ngày nào xếp hàng vào lớp chúng toi cũng hát!Bài “Lòng Mẹ Việt Nam” ai cũng thuộc,còn bài “Thằng Cuội “thì không thể thiếu trong dịp Tết Trung Thu,cùng với bài “Tuổi Thơ” mà tôi và một số bạn rất thích vì ca từ dễ thương:

 

Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn
Bảy giờ đêm nằm ngủ mơ thấy tiên”

 

À mà các bạn ta ,có ai mơ thấy tiên chưa nhỉ???

 

Lê Ngọc Phượng

20/11/2010

 

 

LNP: Hoai co 66 November 14, 2010

Posted by molang4 in Uncategorized.
add a comment

Hoài cổ 66

Nhạc sĩ Tiền Chiến xưa và nay (1,2,3,4,5,6)

TỰA

Trong thời đại nhạc thương mãi đang hoành hành trên nửa phần đất nước này, thính giả hầu như đã lãng quên những nét vàng son vang bóng thời qua, những nét nhạc hiện thiếu người nuôi dưỡng, phải lép vế dưới thế lực của những nhà thương mãi và những người có uy thế phổ biến loại nhạc thời-trang hiện nay .

Những ca khúc thời qua sáng tác hoàn toàn bằng cảm hứng, không gượng gạo hay uốn nắn theo một đường hướng khác với ý tác-giả, viết bằng những tình cảm trung thực nên dễ làm xúc cảm người nghe, gợi hoặc để lại cho thính-giả những cái gì cao đẹp mà thời gian khó xóa bỏ được . Họ viết là muốn ghi lại những cái gì muốn nói và hy-vọng truyền cảm qua người khác để dìu dắt nhau cùng đi trên con đường xây dựng Thiện-Mỹ .

Tác-phẩm thời ấy như một đứa con xuất thân một gia đình thanh-cảnh có truyền-thống tốt, lại được nuôi dưỡng tử-tế, làm sao không trở nên một đứa con hữu ích cho xã hội . Người nuôi dưỡng nó là ai ? nhiều khi không phải là người sinh ra nó, mà lại là những người hâm-mộ giá-trị của nó, tự thấy phải có trách-nhiệm giới-thiệu cái hay, cái đẹp cho người khác . Chính nhờ tinh-thần vị-tha và giá-trị của tác-phẩm, nhiều ca, nhạc-sĩ và cơ-quan phổ-biến được nổi danh và nhận được nhiều thiện cảm của thính giả .

Ngược lại thời nay, những tác-phẩm giá-trị lại không được trình bày nhiều vì thiếu người nuôi dưỡng vô vụ lợi, những ca-khúc kém phần nghệ-thuật lại được nghe hoài qua các làn sóng điện . Những bài hát này cũng như những đứa con hư xuất thân những gia đình truyền-thống kém nếu không muốn nói là hạ cấp, có những nét phù-phiếm bên ngoài mà nội dung rỗng tuếch . Nhưng chúng lại gặp may, được sinh sản trong một cái thế-giới đảo điên, tâm hồn con người đang thác-loạn chạy theo cái hào hoa bên ngoài, được săn-sóc bằng những bàn tay trục lợi của những kẻ có thế-lực . Có lẽ vì hiện-trạng chiến-tranh, vì thế-lực kim tiền của ngoại nhân, những người kém trí-thức, thiếu tự trọng đã gặp nhiều cơ-hội tốt trở nên giàu có trong nháy mắt và những kẻ đứng đắn lại phải chịu phận nghèo vì tự-ái . Có lẽ vì hạng người thứ nhất khá nhiều, nên loại nhạc thời-trang hiện nay đã phục-vụ đắc lực cho họ, và loại nhạc đứng đắn có nghệ-thuật không đứng vững được vì hạng người thứ hai quá ít . Đây là điều mà chúng tôi và những người tha-thiết muốn xây dựng cho nền nhạc Việt rất buồn phiền, nhưng không biết làm sao vật đỗ được những tệ đoan ấy vì khả-năng phổ-biến nhạc hiện nay đang ở trong tay những kẻ thủ lợi có thế-lực .

Thấy thực tại mà càng thương mến dĩ-vãng . Cho nên ngay phút đầu tiên tiếp xúc với nhóm “ĐẤT LÀNH” chủ-trương tuyển tập nhạc “VANG BÓNG MỘT THỜI”, tôi đã có cảm tình ngay .

Đây là một việc làm đáng ca ngợi và khuyến-khích, một việc làm vô vụ lợi .

Chúng tôi rất thiết-tha mong Quí Vị đón tiếp tập tuyển nhạc này với một thiện cảm nồng nhiệt, và miễn thứ cho nhóm chủ-trương những thiếu sót vì hoàn cảnh khó khăn trong việc thực-hiện .

HÈ 1971
Văn-Giảng

(nguồn)

Bốn mươi năm trước người ta đã trân trọng nền âm nhạc nước nhà như thế!Ngày nay người ta mơ hồ nói đến nhạc tiền chiến,nhạc vàng trong một trật tự rất lộn xộn,cùng hàng với …nhạc Trịnh!

Từ lâu tôi đã tự nhủ lòng,trong thời đại có sự thuận lợi của mạng toàn cầu Internet,ta phải lợi dụng cơ hội tìm về những giá trị xưa,mà thời mới lớn ta ước ao nhưng chưa thực hiện được.Sau loạt bài hoài cổ,với bao thận trọng và kiềm chế,tôi đã nói được phần nào những bài nhạc Việt ở miền Nam trong khoảng những năm 50_75,và tìm hiểu (qua mạng)những chuyển biến của dòng nhạc đó những ngày sau này.

Bây giờ trở ngược về những năm trước 54 với những tác phẩm tiền chiến và tìm hiểu xem những tác giả của những tác phẩm bất hủ đó có tiểu sử như thế nào và có những sáng tác nào đáng ngưỡng mộ ?Ở đây tôi cũng có những thuận lợi là thông tin,từ những ngày đổi mới (1985) đã có phần nào nới lỏng ( kể cả ngoài luồng)qua các trang web nhạc của Hội Nhạc sĩ hay từ các trang blog cá nhân.Tìm hiểu đến đâu tôi sẽ xin tường trình cùng các bạn,ngay cả những điều đơn giản mà bạn đã biết hay có kèm theo cả sai lạc do kiến thức kém cỏi của tôi.Cô độc trên con đường mới mẻ này,chắc chắn tôi sẽ rất cần sự giúp đỡ của những bạn tôi,những người có hoạt động trong lãnh vực văn nghệ những ngày xưa ấy như HVH,LHC,những người  đã cho tôi biết đến Phạm Duy,Cung Tiến,Anh Việt để tôi say mê với Ngậm Ngùi,Hoài Cảm ,Thơ Ngây …cho đến bây giờ!

Nói đến nhạc Tiền Chiến,tôi xin có lời thanh minh rằng các tài liệu để viết nên bài này được dựa vào Hồi Ký của nhạc Sĩ Phạm Duy (5 ),và lời thuật của nhạc sĩ Lê Thương(4),cũng như các bài viết khác mà tôi tìm được trên các trang mạng.Trước hết xin mời các bạn có một cái nhìn tổng quát  qua trang Wikipédia:

Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong

Nguyễn Xuân Khoát

Được xem như người anh cả trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời, ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết trình cho sự cải cách nhạc Việt, được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩmMầu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ, vừa ra đời đã được hoan nghênh lớn.

Lê Thương

Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc, đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ nhưBản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo Kinh ChâuHòn vọng phu.

Văn Cao

Văn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu, Vui lên đường. Năm 1941, Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi, Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân… Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.

Đặng Thế Phong

Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm Đêm thu, Con thuyền không bếnGiọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.

Phạm Duy

Ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy, nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, tiếp đó là những bản nhạc lãng mạn như Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya hay đậm chất dân ca nhưEm bé quê, Tình ca, Bà mẹ quê, Gánh lúa…Phạm Duy và Văn Cao là hai người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề, họ từng sáng tác chung các ca khúc Bến xuân, Suối mơ.

Phạm Duy là người có công đầu trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo.

Nhóm Myosotis

Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩThẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh… trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Hai xu hướng chính của nhóm là:

                     Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.

                     Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.

Từ 1938 cho tới 1942, nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.

Nhóm Tricéa

Nhóm Tricéa gồm ba thành viên Văn Chung, Lê YênDoãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: “Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam”.

Những năm khoảng 1939, nhiều ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời gian

Nhóm Đồng Vọng

Nhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ), Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam.

Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.

Nhóm Tổng Hội Sinh Viên

Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam, nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên manh tính chính trị nhiều hơn.

Tổng Hội Sinh Viên được khởi đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống PhápNhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh… đã để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.

Giai đoạn 1945-1954

Từ năm 1946, nhiều nhạc sĩ lên chiến khu và viết ca khúc kháng chiến của Việt Minh chống Pháp. Nhưng nhiều người trong số họ vẫn có những sáng tác lãng mạn như Nguyễn Văn Tý với Dư âm, Trần Hoàn với Sơn nữ ca, Tô Hải với Nụ cười sơn cước, Việt Lang với Tình quê hương

Trong vùng đô thị Pháp tạm chiếm, cả hai dòng nhạc yêu nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài phát thanh, trong vũ trường và các quán rượu. Năm 1950, tạp chí Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội đã xuất bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã phát thanh gồm cả những bài hát lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác dành cho những người lính kháng chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt động vào năm 1954, họ đã phát thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.

Sau 1954 ở miền Nam

Sau năm 1954, Việt Nam chia làm hai miền với chế độ khác nhau. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không còn sáng tác, hoặc không phổ biến những ca khúc trữ tình lãng mạn. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyếtTự Lực Văn Đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu, xây dựng đất nước, đấu tranh cách mạng… và được xếp vào dòng nhạc đỏ.

Một số nhạc sĩ khác di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng… hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy… và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến… đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.

Những nhạc sĩ này trong khoảng 1954 đến 1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến, có thể kể đến là Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng dương, Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương, Hương xưa, Thu vàng của Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Duy Trác, Sĩ Phú, Hà Thanh

Số phận nhạc tiền chiến sau 1975

Tại Việt Nam

Tại Việt Nam sau 1975, phần lớn những ca khúc tiền chiến vẫn không được lưu hành. Cho tới năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định “cởi trói văn nghệ“, một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó, những nhạc phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong… được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi, trong đó phải kể đến những nỗ lực của ca sĩ Ánh Tuyết.

Những năm đầu thế kỷ 21, những ca khúc đầu tiên của dòng tân nhạc ấy vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình diễn và thu âm. Và một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.

Ở hải ngoại

Sau sự kiện 30 tháng 4 1975, nhiều ca sĩ và nhạc sĩ của miền Nam rời Việt Nam định cư tại nhiều nước trên thế giới, tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại, các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Cung Tiến… ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến.

Nhưng dòng nhạc đó vẫn được yêu thích, những ca sĩ đã thành danh trước 1975 như Khánh Ly, Lệ Thu, Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương,Quỳnh Giao, Tuấn Ngọc, Khánh Hà… hay những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ… thường xuyên trình diễn những nhạc phẩm này.

Tuy nhiều nhạc sĩ danh tiếng trong giai đoạn này như Lê Trạch Lựu,Hoàng Giác,Hùng Lân,Hoàng Việt,Phan Huỳnh Điểu,Nguyễn Văn Thương… chưa được liệt kê ra đây,cũng như vai trò của nhạc sĩ Nguyễn văn Tuyên (3)nhưng trên tinh thần của bản mục lục này,tôi sẽ lần lượt giới thiệu với các bạn những tìm tòi của tôi qua các trang mạng.

Nhạc Sĩ Nguyễn Xuân Khoát (1,2)mà tiểu sử như ở trên có thể bổ túc thêm bằng bài viết của Hội Nhạc Sĩ VN:

Nguyễn Xuân Khoát là một trong số hiếm hoi các học viên của Viễn Đông Nhạc viện mở ở Hà Nội thập niên 30. Ông chơi thành thạo violon, piano và nhất là contrebasse.

Ấn phẩm âm nhạc đầu tiên của ông – bài hát Bình minh (thơ của Thế Lữ) in trên tờ Ngày nay mùa thu 1938 được xem như mốc son đánh dấu sự ra đời của tân nhạc Việt Nam. Ý thức được sự riêng biệt của âm nhạc Việt Nam, ở nhiều tác phẩm của mình, Nguyễn Xuân Khoát đã phủ vào đấy đậm đặc chất liệu âm nhạc dân gian như Con cò mày đi ăn đêmCon voiThằng Bờm… và những tiểu luận, khảo cứu đăng tải trên báo chí về ca trù, quan họ, chèo… Năm 1942, ông tham gia nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng với tiêu chí trên và đã thực hiện phổ nhạc một cách độc đáo bài thơ Màu thời

gian của Đoàn Phú Tứ (một nhà thơ thành viên của nhóm).

Cùng Thế Lữ tổ chức Đoàn kịch Anh Vũ, ông đã đi dọc suốt những năm tháng đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ông là thành viên quan trọng trong Hội Khuyến nhạc tổ chức ở Hà Nội lúc bấy giờ. Quán Nghệ sĩ Hà Nội, mà khi ấy, ông là linh hồn của ban nhạc, đã ghi lại một dấu ấn văn hoá trước ngày Toàn quốc kháng chiến.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông nổi tiếng với Tiếng chuông nhà thờ, Uất hận… Trong giai đoạn tham gia quân đội, ông đã cùng Nguyễn Đình Thi viết lại Con voi và sáng tác Hát mừng bộ đội chiến thắng, vẫn một tâm niệm về nghệ thuật âm nhạc dân tộc. Hoà bình lập lại, ông hứng khởi với hợp xướng Ta đã lớn, Hò kiến thiếtLúa thu – một ca khúc thiếu nhi khá độc đáo về đề tài đấu tranh thống nhất đất nước. Cũng trong thời kỳ này, trong sự tín nhiệm của toàn thể anh em nhạc sĩ, ông được bầu là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam Khoá I.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông có Tay súng sẵn sàng, tay lúa vững vàng như cùng nhạc sĩ cả nước thúc giục chiến đấu. Theo lời Bác gọi của ông (phỏng thơ Lê Kỳ Văn) đã như lời hiệu triệu bằng âm nhạc kêu gọi thanh niên lên đường ra tiền tuyến.

Kiên trì trên con đường gìn giữ bản sắc dân tộc trong âm nhạc, bên cạnh những khảo cứu, tiểu luận bày tỏ quan niệm, tình cảm của mình, Nguyễn Xuân Khoát thực hiện tiêu chí ấy trong nhiều tác phẩm như thanh xướng kịch Vượt sông Cái, Trống Tràng Thành viết cho piano, rồi đến những hoà tấu nhạc cụ như Ông Gióng,Sơn Tinh – Thuỷ Tinh và hoàn toàn cho bộ gõ dân tộc như Tiếng pháo giao thừa, Cúc – Trúc – Tùng – Mai

Những năm cuối đời, tuổi càng cao, ý nghĩ của ông càng sắc sảo, sâu nặng. Ông đã truyền được ngọn lửa gìn giữ bản sắc dân tộc sang các thế hệ nhạc sĩ lớp sau bằng bài viết, bằng tác phẩm, bằng cả những cuộc trò chuyện. Ông đã xuất bản nhiều tuyển tập ca khúc, nhiều sách chuyên khảo và album tác giả.

Nguyễn Xuân Khoát để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử tân nhạc Việt Nam, trong lịch sử Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

(Nguồn :Tranquanhai)

Tất cả chỉ là sự ca tụng chung chung,không thể tìm thấy những tài liêu cần tham khảo,vì “không có dấu ấn” nào để lại trong các tác phẩm trình diễn của ông được lưu lại trên net,hay trong tâm tưởng những người nghe nhạc Việt,ngoài mộ số bài được ca sĩ miền Nam trình diễn như:

Mầu Thời Gian “(thơ Đoàn Phú Thứ, Bích Hồng trình bày)(1942)

Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình muôn thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát

và bài:

Tiếng Chuông Nhà Thờ

Thánh-đường tôn-nghiêm,
Giặc tràn tới chiếm,
Gác cao quả-thánh, đặt súng thay chuông,
Khúc hát bạo-cuồng,
Tàn-sát dân lành.

Đây xưa nay, ngày những ngày, những hồi chuông.
Đây xưa nay, ngày những ngày, tiếng tiếng buông.

Tiếng buông hồi chuông nhân-chủng cầu Chúa ban phước ân lành cho nhân-loại.

Đây xưa nay, ngày những ngày, những hồi chuông.
Đây xưa nay, ngày những ngày, tiếng tiếng buông.

Tiếng buông hồi chuông vui mừng nỗi duyên đôi lứa uyên-ương lập gia-đình.

Đây xưa nay, ngày những ngày, những hồi chuông.
Đây xưa nay, ngày những ngày, tiếng tiếng buông.

Tiếng buông hồi chuông nhân-từ vui đón rửa tội-tổ-tông kẻ sơ-sinh.

Đây xưa nay, ngày những ngày, những hồi chuông.
Đây xưa nay, ngày những ngày, tiếng tiếng buông.

Tiếng buông hồi chuông rỉ-rền đưa cất linh-hồn kẻ chết về thiên-đường.

Thế mà giờ đây
Thánh-đường tôn-nghiêm,
Giặc Vàng tới chiếm,
Gác cao quả-thánh, đặt súng thay chuông,
Khúc hát bạo-cuồng,
Tàn-sát dân lành,
Tàn-sát dân lành.

Nhưng rồi đây, rồi đây giết hết loài gian.
Nhưng rồi đây, rồi đây giết hết loài gian.
Nhạc thánh buông lơi đổ tiếng vàng
Đời-đời âm-vọng gác nghiêm-trang.

Nhưng rồi đây, rồi đây giết hết loài gian.
Nhưng rồi đây, rồi đây giết hết loài gian.
Nhạc thánh buông lơi đổ tiếng vàng
Đời-đời âm-vọng gác nghiêm-trang.

Tài-liệu tham-khảo:

(1) Băng nhạc Mây Hồng – Giáng-sinh 1970 – Y Vân thực-hiện – Giọng hát: Anh Ngọc và toàn ban phụ-hoạ.

Thực ra mấy bài này ít phổ biến,nên không mấy ai biết,nhưng bài “Con voi “của ông thì đám nhi đồng chúng tôi thời đó,đứa nào cũng thuộc,nhất là sau này có phong trào Hướng đạo,ở đâu có cắm trại,ở đó nghe hát vang:

Con Voi 1

Trông kìa con voi , nó đứng rung rinh
Nghiêng mình trông đám nhên đang vò tơ
Anh chàng voi ta thích chí mê tơi
Liền mời anh khác từ xa vào chơi . . .

 

Chưa thể so với nhạc cổ điển hay tân nhạc Tây Phương thời đó với những Schubert,Chopin,…nhưng dù sao đây cũng là một cái mốc ban đầu để 60 năm sau ta có được một nền tân nhạc như ngày nay !Và tôi cho rằng đã có một  sự tiến bộ đó vượt bậc !

(Còn tiếp)

Lê Ngọc Phượng

13/11/2010